Viêm da tiết bã nhờn là bệnh da liễu mãn tính, có liên quan mật thiết với hoạt động rối loạn của tuyến bã nhờn và tác động từ nấm men Malassezia. Bệnh chủ yếu phát sinh thương tổn trên da và không liên quan đến sức khỏe tổng thể. Thế nhưng do tính chất dai dẳng và dễ tái phát, bệnh lý này có thể tác động tiêu cực đến tâm lý, ngoại hình và làm giảm chất lượng cuộc sống.
1. Bệnh viêm da tiết bã nhờn là gì?
Viêm da tiết bã hay còn gọi là viêm da dầu, chàm da mỡ. Đây là một bệnh viêm da mạn tính thường gặp với hình ảnh đặc trưng là mảng hồng ban tróc vảy vùng tiết bã (nếp mũi má, chân mày, mang tai, trước ngực, da đầu). Nhất định hơn, viêm da tiết bã khiến cho da khô và bong ra, làm da đỏ và tróc vảy. Bệnh thường ảnh hưởng đến vùng da hay tiết dầu, thế nhưng bệnh cũng có thể xuất hiện ở những khu vực da dày và khô.
Ở trẻ em, bệnh này có tên theo dân gian là bệnh “cứt trâu”. Bệnh này không lây nhiễm, không liên quan nhiều đến sức khỏe nhưng có thể liên quan đến vẻ bề ngoài và khiến bệnh nhân cảm nhận thấy khó chịu. Viêm da tiết bã thường tồn tại khá lâu và cần điều trị lặp đi lặp lại nhiều lần.
2. Nguyên nhân gây viêm da tiết bã nhờn
Nguyên nhân chuẩn xác gây bệnh viêm da dầu vẫn chưa được nắm rõ ràng. Thế nhưng qua một vài nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy bệnh có quan hệ mật thiết với hoạt động bất thường của hệ miễn dịch cộng hưởng với tác động từ nấm men Malassezia.
Ngoài ra bệnh lý này còn chịu liên quan của một vài yếu tố rủi ro như:
- Di truyền: nếu có người thân cận huyết mắc bệnh viêm da dầu hoặc vảy nến, bạn sẽ có rủi ro mắc bệnh lý này cao hơn bình thường.
- Da dầu: Theo tổng hợp và thống kê, người có làn da dầu thường có rủi ro mắc bệnh viêm da tiết bã nhờn cao hơn bình thường. Theo lý giải từ một vài những người có chuyên môn, hoạt động bài tiết dầu quá mức có thể kích thích hoạt động của nấm men và bùng phát triệu chứng của bệnh.
- Tác động từ thời tiết: Viêm da tiết bã nhờn thường có xu thế bùng phát mạnh vào mùa thu – đông và giảm nhẹ vào mùa hè. Thường thường vào mùa thu – đông, da dễ bị mất nước, khô ráp, bong tróc, dẫn đến trạng thái suy giảm sức đề kháng. Trong khi đó vào mùa hè, da có xu hướng khỏe mạnh do có đủ độ ẩm và năng lực đàn hồi cao.
- Suy giảm sức đề kháng: Cơ chế tạo thành bệnh viêm da tiết bã có liên quan đến hoạt động bất thường của hệ miễn dịch. Nếu hệ miễn dịch suy yếu, bệnh có khả năng khởi phát và tiến triển mạnh.
- Chế độ dinh dưỡng: Thực phẩm nhiều đường, muối, dầu mỡ, gia vị cay nóng và rượu bia có thể kích thích da tiết nhiều dầu thừa, tạo điều kiện cho nấm men phát triển và kích thích viêm da tiết bã bùng phát.
- Tác dụng phụ của thuốc: một số loại thuốc điều trị (kháng sinh, thuốc corticoid, thuốc ức chế miễn dịch,…) có thể là yếu tố làm tăng rủi ro bùng phát bệnh viêm da dầu và một vài trạng thái viêm da mãn tính khác.
- Một vài yếu tố khác: hơn nữa rủi ro mắc bệnh cũng có thể tăng lên nếu như có một vài yếu tố rủi ro như rối loạn nội tiết tố, vệ sinh da kém, trầm cảm, căng thẳng thần kinh kéo dài, sinh sống trong môi trường ô nhiễm,…
3. Những triệu chứng khi mắc viêm da dầu
Như đã đề cập ở trên, tất cả mọi người đều có thể mắc viêm da tiết bã. Tuy nhiên, triệu chứng của viêm da dầu xuất hiện trên người bệnh không phải lúc nào cũng giống nhau. Đối với trẻ sơ sinh sẽ có sự khác biệt so sánh với người trưởng thành.
3.1. Triệu chứng viêm da dầu trên trẻ sơ sinh
Đối với trẻ sơ sinh, tình trạng viêm da tiết bã thường xuất hiện ở phía trên đỉnh đầu. Dân gian thường gọi là “cứt trâu”. Thông thường, viêm da dầu chỉ xuất hiện ở trẻ trong vòng 3 tháng đầu đời và dần biến mất hẳn khi trẻ được 6 đến 12 tháng.
Biểu hiện của viêm da dầu thường là xuất hiện những mảng da dày, cứng bám chặt phía trên đỉnh đầu. Những mảng da này có thể là màu trắng, màu nâu hoặc màu đen dựa vào từng trẻ mắc phải. Khi mắc viêm da dầu, trẻ không cảm thấy ngứa ngáy, khó chịu. Hầu hết tình trạng bệnh lý này sẽ tự khỏi, không nên có sự can thiệp của thuốc và không tái phát lần thứ hai.

3.2. Triệu chứng viêm da dầu trên người trưởng thành
Đối với người trưởng thành, biểu hiện của bệnh viêm da tiết bã sẽ có sự thay đổi không giống nhau. Viêm da dầu thường xuất hiện ở những vùng bã nhờn hoạt động mạnh như vùng chữ T trên gương mặt, vị trí sau tai, vùng da đầu, vùng trán,…
Tại những vị trí mắc viêm da dầu, vùng da thường xuất hiện vết ửng đỏ, vảy khô và nhờn kết hợp. Nếu như viêm da dầu xuất hiện ở trên những vị trí như phần ngực, lưng, rìa mái tóc thường sẽ có các đường viền màu đỏ tươi phân biệt với vùng da bình thường xung quanh.
Trong một số trường hợp, người bệnh sẽ cảm nhận thấy ngứa tại vùng bị viêm. Tình trạng bệnh dễ tái phát thường xuyên. Nếu như không được điều trị kịp thời bệnh sẽ trở nên mạn tính và biến chứng nguy hiểm hơn.

4. Trị viêm da tiết bã tận gốc được không?
Bệnh viêm da dầu là bệnh da mạn tính, gây rối cho người bệnh vì màu da tổn thương đỏ, vảy da bong liên tục liên quan đến thẩm mỹ và chất lượng sống. Tuy nhiên, nếu như điều trị đúng và duy trì chế độ điều trị, bệnh nhân có thể khỏi bệnh triệt để hoặc chỉ làm giảm các triệu chứng phiền phức của bệnh gây nên và tái phát sau đó nhiều lần.
Tùy từng trường hợp nhất định mà các bác sĩ chỉ định cho phù hợp có thể dùng thuốc bôi, dầu gội chống nấm. Các kem dưỡng ẩm cần bôi nhiều lần trong ngày và bôi duy trì, đặc biệt vào mùa thu – đông. Ngoài ra, các bác sĩ cũng xem xét về thể trạng của người bệnh, dinh dưỡng và các vitamin nhóm B, vitamin B3, B6, vitamin H, uống kẽm. Thế nên khi mắc bệnh cần được khám và tư vấn cụ thể, tuyệt đối không điều trị mách bảo.

5. Điều trị và chăm sóc viêm da tiết bã trên các vùng cơ thể
5.1 Da đầu, râu
– Điều trị nấm da đầu, râu: Mỗi ngày hoặc cách ngày có thể dùng dầu gội chứa 2.5 % Selenium sulfide hoặc 1-2 % Pyrithione zinc hoặc Ketoconazole. Một khi bệnh được kiểm soát dầu gội trị gàu có thể dãn ra dùng 2 lần/tuần nếu như cần. Terbinafine solution 1% cũng có hiệu quả trong điều trị cho vùng này.
– Nếu vùng da phủ đầy lớp vảy/gàu dày: Có thể thoa dầu khoáng ấm/dầu olive trong nhiều giờ, sau đó rửa sạch với chất tẩy rửa như nước rửa chén hoặc dầu gội Tar. Cũng có thể ủ qua đêm hỗn hợp Coal tar keratolytic với Phenol-saline solution, gội sạch lại vào buổi sáng.
– Vảy/gàu nhiều và viêm: Điều trị bằng việc làm mềm vảy với Fluocinolone acetonide, 0.01 % in oil ủ qua đêm và gội đầu vào buổi sáng. Thực hiện đều đặn mỗi đêm cho đến khi trạng thái viêm không còn. Sau đấy giảm còn 1-3 lần/tuần nếu cần. Có thể dùng Corticosteroids tại chỗ dạng solution, lotion, ointment thay cho Fluocinolone acetonide, 1-2 lần/ ngày trong 1-3 tuần. Điều trị tiếp sau đấy chỉ cần dùng dầu gội trị gàu là đủ.
– Với trẻ nhũ nhi: Triệu chứng sẽ tự hết. Vì thế chỉ can thiệp điều trị khi vảy quá dày hoặc viêm gây khó chịu. Trước tiên có thể làm sạch vảy bằng cách thoa dầu olive và ủ trong nhiều giờ, dùng bàn chải mềm chải nhẹ và gội lại với dầu dịu nhẹ. nếu triệu chứng vẫn không cải thiện mới dùng những cách điều trị như đã nêu bên trên.
– Với trẻ tiền dậy thì: tình trạng gàu da đầu liên quan đến nấm hơn là viêm da tiết bã. Nếu gàu nhiều, hãy làm mềm vảy gàu với dầu, sau đó chải sạch, rồi gội đầu bằng dầu gội trị gàu.
5.2 Da mặt
- Dùng dầu gội dùng được cho da vùng mặt.
- Kem Ketoconazole 2% sử dụng 1-2 lần mỗi ngày.
- Kem Hydrocortisone 1% 1-2 lần mỗi ngày đến khi da hết ngứa và viêm đỏ.
- Lotion Sodium sulfacetamide 10% cũng có hiệu quả.
5.3 Da toàn thân
- Tắm hàng ngày với dầu gội chứa Zinc hoặc coal tar hoặc gently cleanser chứa 2% zinc pyrithione.
- Kem Ketoconazole 2% và hoặc corticosteroid dạng kem, lotion, solution 1-2 lần mỗi ngày cũng được sử dụng điều trị.
- Washing với Benzoyl peroxide cũng hiệu quả.
- Quan tâm nên rửa sạch sau sử dụng thuốc vì những thuốc trên có tính tẩy làm bay màu quần áo/ ra giường…
- Những thuốc làm khô da vì lẽ đó có thể dưỡng ẩm da sau dùng.
Khi corticosteroids không thích hợp hoặc phải dùng kéo dài, có thể chọn nhóm non-corticosteroids như tacrolimus (Protopic) or pimecrolimus (Elidel). Những thuốc này thuộc nhóm ức chế Calcineurin, chỉ dùng cho người lớn và trẻ trên 2 tuổi. Uống thuốc kháng nấm được sử dụng trong một vài trường hợp rất nặng.
Khi gặp các vấn đề về viêm da có triệu chứng tương tự, bạn nên liên hệ với bác sĩ để được thăm khám, tư vấn và hướng dẫn điều trị kịp thời và hiệu quả.